Vậy là hơn mười
năm kể từ ngày được mặc chiếc áo đạo lần đầu. Giây phút của buổi ấy không
thiêng liêng, không cảm thấy một nỗi run sợ lâng lâng khi quỳ nghe lời kinh
nguyện:
Thiện tai đại
trượng phu
…
Có lẽ đó là
niềm ân hận sẽ còn dai dẳng về sau. Có lẽ đó sẽ mãi là vùng trống hẫng không thể
bám dựa mỗi khi muốn có một chỗ siết trụ để vực dậy sau lần yếu quỵ. Đã đành tuổi
nhỏ không đủ tâm can trí lực để lãnh ngộ cho hết sự trọng đại của thời khắc ấy,
nhưng vẫn còn nhớ giọt nước mắt buổi trưa hôm nào khóc thương cuộc đời Đức Phật
nơi rừng sâu trước khi quyết định vào chùa, vậy ít ra, phải…
Thế cho nên
sau này, mỗi khi chùa có người xuất gia, trước buổi công phu khuya, đã gọi qua
phòng, mặc áo dài ngồi nói chuyện. Chỉ muốn sao, trước lúc chiếc kéo chạm vào
mái tóc, người ấy phải cảm thấy mình sắp gặp phải một điều tối cùng hệ trọng. Hệ
trọng đến mức có thể làm đảo lộn cả một dòng sống chết bao nhiêu ngàn triệu kiếp.
Hệ trọng đến mức con người mình sẽ thoát thai trong một cuộc đầu thai kỳ dị.
Hay ít ra, nó hệ trọng đủ để dù sau này, người ấy có lại lao lung trong luẩn quẩn
thường phàm cuộc đời thì bất chợt dấy hiện một buổi khuya về sáng đã từng ấn điểm
bàn chân lên con đường siêu thế, con đường rạch ngang cõi đất hệ lụy này mà đi.
Làm sao người
chưa đi có thể biết được sẽ có ngày kia con đường này chỉ một mình mình cô độc?
Những người trước và sau, những người đây và đó, những người lạ và thân sẽ
không thể nào giúp được gì cả. Chẳng phải vì gì. Chỉ đơn giản vì không thể
giúp, vì con đường này là con đường phải tự mình. Tự mình đi, tự mình đứng dậy,
tự mình vịn lấy mình. Lấy gì mà vịn, nếu không phải cái chí nguyện sắt đá đã
mím môi nín lặng tạc thành trong niềm kính mộ của buổi xuất gia? Vì vậy, người
đi trước, người đã biết, không thể không khơi lên ngọn lửa tận xương tủy của kẻ
đến sau. Việc đó nhiều khi là duy nhất mà hai thế hệ có thể làm cho nhau.
“Phù xuất
gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn
nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu…”. Đọc lời kinh mà thở dài xa thẳm.
Nếu nói theo một cách nào đó, phải chăng là đang ôm một mộng tưởng, hoài một
cao vọng? Phải chăng đang không “bình thường tâm”? Phải chăng “thân lừa ưa nặng”?
Từ thuở đầu còn để chỏm đã thầm thầm ghi khắc vào tâm mấy chữ “đương nguyện
chúng sanh” của câu kệ Tỳ-ni. Đâu hay bốn chữ đó là viên ngọc bỏng rát mà rất
nhiều lần đã không đủ sức, đủ lòng ôm giữ, suýt vụt phụt nhả. Nhưng buông nó
ra, còn gì để sống, để cuộc sống đáng sống? Đan tâm còn chút gọi là…
Cùng hình
bóng Ngài, viên ngọc ấy sẽ là linh ảnh, là linh quang còn lại, hiện về qua biết
bao cơn suy sụp đổ vỡ, để trời đất không chỉ là màu đen bóng tối tuyệt thất vọng,
màu nhờ nhợ vô phương bất định, màu xám tái chẳng tìm đâu ý nghĩa. Chỉ khi ấy mới
liễu chân nghĩa “đương nguyện chúng sanh” là gì, làm gì. Nhưng trước khi toát
hiển ánh sáng thần diệu, nó sẽ nung cháy tâm khảm người đến bưng mủ đau buốt.
Nó hoàn toàn không là viên ngọc đeo cổ trang trí cho người ta tự hào, người ta
nhân danh, người ta chia phân đẳng cấp. Nó đốt cháy lời lẽ, đốt cháy phân bua,
đốt cháy viện dẫn.
Con đường xuất
gia, con đường học đạo cứ luôn là con đường bỏ lại phía sau từng từng ngộ nhận.
Thường, không phải người ta không biết mình ngộ nhận, có khi biết rất rõ, nhưng
người ta sợ… Bởi vì “bỏ” đồng nghĩa với “mất”. Khi chưa có cái chắc thật, ai
dám buông cái giả trong tay. Vì rằng cái giả, cái huyễn, cái mộng, cái vọng ấy
đã gắn liền, đã nuôi sống con người ta. Đã là máu mủ. Đã cùng một thân. Con người
cô đơn và yếu đuối, cứ luôn muốn được thuộc về, được tương giao, được đồng cảm.
Mà đường độc lộ ly gia lộng thênh gió lạnh. Càng thấy nếu thiếu thạch trụ chí
nguyện ấy, quả khó để kiên gan một bước tiến lên tiền đồ không bóng tha nhân
trước mắt. Bản ngã vì sợ không có “của ta” nên thường vẽ vời dụ dẫn, mê mị tiếng
lời, mượn danh vô số thân tình mà kết dây luyến ái, viện đầy lý lẽ nhằm củng cố
chỗ ngồi yên. Tình yêu – tình thương – vị tha – tri kỷ - tri âm – đất nước –
nhân loại… Đó là những danh từ, những mỹ danh từ mà bản ngã vin vào để chống đối
lại quyết định lên đường. Trọn vẹn – hết lòng – thể nhập – thân chứng… là những
lý lẽ mà nó biện minh cho sự ngồi yên chìm đắm của mình. Nó cũng làm ra vẻ một
kẻ xông xáo đây đó, đào xới xuống sâu, phóng vượt lên cao, nhưng rốt cuộc có gì
khác ngoài màn kịch xưa cũ đã phô diễn đến triệu triệu lần trong vô cùng kiếp sống.
Chỉ bởi mình yếu vía nhược lòng nên hoài hoài không thoát đi.
Con đường xuất
gia, dưới mỗi bước chân của kẻ đi, lại chia đôi: trước sau, trái phải, trên dưới,
ngoài trong, qua lại, còn mất… “Hai chân
đi sau trước biết gì nhau”, người ta phân ly con đường trong chính mình. Do
lẽ đó, sự lựa chọn của kẻ ấy phải luôn là một quyết định dứt khoát nếu không muốn
quỵ chết trong chọn lựa. Và chuyện muôn đời của chọn lựa là giá trị nào thực
đáng chọn. Chính lúc ấy, nếu mắt không từng lấp lánh viên ngọc kia, nếu tim
chưa có lần qua cơn đau hoài ngọc để biết cách hồn hậu ôm ấp thì làm sao có thể
buông tay thả mình cho tiếng gọi triều quy? Trở về, cũng như ra đi, trước hết
là một nỗi đau của ly biệt và vô thường. Nỗi đau này, người ta không thể thỏa
hiệp hoài bằng hạnh phúc đắp đổi. Chỉ có cách ôm lấy, tan vào… “Thế phi dõng liệt trượng phu, giải thoát hán
hà năng kham thử?”, bậc trượng phu kia phải dõng liệt với điều gì nơi cõi
thế nếu không phải Khổ đế?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét