Tiêu
đề bài viết ở trên là câu thơ tôi viết lên bìa cuốn Trà Thư (The Book
of Tea) của Okakura Kakuzo khi cầm trên tay sau một thời gian lùng sục
tìm mua. Từ đó đến nay cũng đã năm năm có dư. So với tuổi hai tám
thì năm năm là một khoảng thời gian khá dài, mà thời gian càng dài
thì cái món nợ của mình với trà càng lớn. Mãi đến hôm nay, âu cũng
là nhân duyên cho một dịp, mới viết một bài để nói lên lời thâm cảm
với chén trà nhân gian.
Còn
nhớ chừng năm sáu năm trước, khi một người bạn hỏi: “Mỗi khi mình
buồn, mình tìm ai đó tâm sự. Vậy mỗi khi H buồn, H làm gì?” Tôi
trả lời: “Đi pha một bình trà, và ngồi nghe mình buồn”. Vậy
đó, trà hiện hữu giữa cuộc sống của tôi cứ như một người bạn thân
quen mà lặng lẽ: không gần đến mức ngày nào cũng gặp, nhưng gần đủ
để muốn gặp thì người bạn đó đã ngồi chờ mình sẵn rồi.
Trà
là một người bạn điềm đạm và dạy bạn điềm đạm. Bạn không thể vội
vàng với trà được. Nếu bạn vội, nước nấu sẽ không đủ sôi. Nếu vội,
bạn sẽ làm rơi trà ra khi bỏ vào miệng chiếc ấm đất nho nhỏ. Nếu
vội, bạn sẽ chế nước tràn ra ngoài. Nếu vội, bạn sẽ thấy trà sao
mà lâu ra thế. Ngay cả khi trà đã ra, đã được rót vào từng chén
nhỏ, nếu vội, bạn cũng có thể bị phỏng khi hấp tấp cầm chén trà
lên và uống ực. Nếu bạn vẫn vội, muốn uống ngay nên thổi cho mau
nguội, thì bạn thổi đi luôn phần tuyệt vời nhất của trà: cái hơi
nóng tỏa ra từ chén trà chạm vào đôi tay và hương trà thơm lờn vờn
bay lên từ chất nước màu vàng tươi nổi bật trên lớp men trắng tinh
khiết.
Trà
là một người bạn biết lắng nghe một cách chân tình nhưng bình thản.
Bạn ngồi đó, khi thì cảm xúc buồn vui chập chờn, lúc lại ghét
thương ẩn hiện, rồi những khoảnh khắc mọi thứ trở nên lặng im tĩnh
tại, và dòng suy nghĩ bất tận lại tuôn chảy miên man… Trà vẫn đối
diện bạn, không nói gì cả, không bình luận thêm bớt gì cả, không vui
theo khi lòng bạn hớn hở, không buồn cùng nếu tâm bạn sầu đau. Trà
để bạn riêng tư với nỗi lòng của mình. Trà trả bạn về cho chính
bạn, để bạn được quyền là bạn. Nếu có nói gì thì trà chỉ nói: “Uống
trà đi!”. Đơn giản vậy thôi: uống thì cứ uống thôi, có gì đâu để
nói, để bàn, để nghĩ. Đơn giản vậy thôi: buồn thì cứ buồn, có gì
đâu để nói, để bàn, để nghĩ; vui cứ vui, có gì đâu để nói, để bàn,
để nghĩ. Hãy để mọi thứ như nó là, vậy thôi.
Bằng
cách đó, trà nâng đỡ tôi dọc quãng đường mười năm từ lần đầu gặp
mặt cho đến ngày hôm nay. Chúng tôi cùng nhau đi qua thăng trầm, được
mất, khôn dại, buồn vui, tỉnh điên, thật giả, nước mắt nụ cười, đứng
lên ngã xuống,…
Trà
dạy tôi biết rằng khi lòng tôi yên thì cuộc đời cũng lặng. Giây phút
tôi ngồi một mình lắng nghe tiếng nước sôi reo lên từ từ, cảm thấy
toàn thân mình tĩnh tọa vững vàng trên mặt đất, mắt khép hờ nhìn
chiếc bình và chung trà độc ẩm cũng đang điềm nhiên có mặt trong
hiện tại, thoảng nghe mùi hương trầm đến đi lẩn khuất, giây phút đó,
dù bên ngoài có là trời mây u ám, hay bên trong biển động triều dâng
thì vẫn hiện diện một niềm bình an không lời.
Trà
dạy tôi biết rằng mọi cái đều có thời điểm của nó, chẳng thể
cưỡng cầu theo ý riêng mình được. Mọi sự cưỡng cầu chỉ làm hỏng đi nét
đẹp hoàn hảo vốn có. Trà Bắc Thái uống được hai ba lần là hết vị.
Trà Oolong uống được năm sáu lần là hết vị. Đừng vì thấy ngon, thấy
thèm mà cố gắng châm thêm một hai nước nữa. Cái nhạt nhạt, ngai ngái
của bình trà quá nước sẽ làm hỏng hết cả hương vị ngon lành mà
mình vừa thưởng thức trước đó. Thay vì cố gắng tìm kiếm thêm chén
trà mới, hãy ngồi im để thấy dư vị ngọt êm nhẹ đến từ vị chát của
chén trà vừa uống vậy.
Lúc
đầu tôi có nói “nhân duyên cho một dịp” để viết bài này vì
dẫu rằng tôi có ý định viết một bài về trà từ lâu nhưng chưa biết
là bao giờ, bỗng nhiên hôm nay một vị thầy nhờ tôi bài giới thiệu về
trà Oolong chùa thầy mới làm ra. Đó quả là điều thú vị: trà do
chùa làm.
Ta
biết rằng nói đến trà đạo Nhật Bản hay thiền trà Trung Hoa thì không
thể không nhắc đến những ngôi chùa và các vị sư, nói như Cao Huy Thuần
“như một chân lý bất diệt, ở đâu có sư thì ở đấy có trà”.
Còn ở Việt Nam, rõ ràng trà và sư cũng là một đôi tri kỷ. Do vậy,
khi một chén trà được làm nên từ một vị sư, tôi nghĩ cái chất
thiền, chất đạo ít nhiều cũng quyện trong làn hương của nó rồi. Tôi
là kẻ mù mờ về chuyện làm trà, nhưng qua những gì thầy nói và qua
những gì tôi biết về thầy, cộng thêm hương trời khí đất của vùng
Bảo Lộc nổi tiếng về trà Oolong, tôi tin đó là một chén trà đáng
uống. Với tôi, để biết chất lượng một sản phẩm? Rất đơn giản: nhìn
vào người làm ra nó hoặc sử dụng nó.
Tôi
thích cái tên trà: Tịnh Tâm. Nó gợi tôi nhớ về một kỷ niệm với một
người bạn trẻ Hàn Quốc. Cậu đến thiền viện tu thiền khóa 26 ngày.
Trong thời gian đó, chúng tôi trò chuyện cũng nhiều, rồi cùng uống
trà đón bình minh buổi sáng, ngắm mây hồng buổi chiều và trăng sao
buổi tối. Cậu kể tôi nghe về tuổi thơ không hạnh phúc bên người cha
rượu chè, hai chị thì đau khổ và tính khí bốc đồng, mẹ thì từ nhỏ
đến giờ cũng chưa thấy mặt, dù là qua ảnh, vì ảnh của mẹ, chị hai
đã gom đem đốt hết. Có nhiều lúc nghe cậu nói về nỗi đau của mình
mà tôi chỉ muốn ôm chầm lấy an ủi như một đứa em. Khóa thiền kết
thúc. Buổi sáng cậu rời đi, tôi mời cậu lên phòng uống trà lần
cuối. Tính anh chàng cũng còn ngây ngô. Cậu tặng tôi tấm hình 3×4 có
ghi tên bằng tiếng Hàn, thêm cái viên gì tròn tròn giống hột nút,
nói tôi có thể xỏ dây đeo ở cổ! Tôi tặng cậu cuốn sách thiền, thêm
một ít trà Oolong Việt Nam. Chúng tôi nói chuyện về chuyến đi sắp
tới qua Nepal để leo Himalaya của cậu, rồi hẹn mai mốt về Việt Nam đi
dọc đất nước…
Chung
trà cuối, cả hai im lặng. Thiền viện buổi sáng cũng im lặng. Nắng
gió im lặng. Vách tường xi măng và cánh cửa gỗ bạc màu cũng im
lặng. Chỉ hương trà Oolong thoảng nhẹ, chất đắng dịu trên môi, và vị
ngọt hậu âm thầm chạm lưỡi. Bất chợt, cậu khóc. Nước mắt cứ chảy
dài trên đôi má chàng trai trẻ. Tôi không nói gì, ngồi mỉm cười nhìn
cậu. Rồi tôi hỏi: “Sao cậu khóc?” Cậu trả lời, nước mắt vẫn
chảy: “Tôi cũng không biết nữa…” Ngừng một lát, cậu nói: “Liệu
tôi có trở thành một người tốt được không?”
Mãi
đến khi cậu đã đi rồi, ngồi một mình hồi lâu tôi mới hiểu hết được
nỗi lòng nặng trĩu trong câu hỏi đó. Mấy ngày trước cậu hỏi tôi: “Trong
thiền viện mọi thứ đều hoàn hảo quá. Nhưng tôi biết làm sao khi trở
lại cuộc sống bên ngoài? Tôi thấy mình còn nhiều dục vọng quá. Tôi
phải làm sao với nó?” Phải chăng trong giây phút mọi thứ im lặng
một cách trong veo bên chén trà thơm ấm, chàng trai trẻ bỗng chạm
phải cái tinh khiết trong tâm hồn mình, để rồi cảm nhận trọn vẹn
quãng quá khứ nhuộm gam màu tối, mơ hồ thấy đường tương lai vương bụi
trần gian, và nước mắt tuôn ra như muốn gột rửa lòng mình? Tôi hạnh
phúc khi thấy cậu khóc như vậy. Một giọt nước mắt khóc cho điều cao
đẹp có thể làm tịnh tâm hồn người ta nhiều lắm.
Có
lẽ qua tuổi đời mấy ngàn năm của mình, chén trà đã chứng kiến
nhiều lắm những phút giây mà cõi lòng loài người trở nên một mặt
hồ phẳng lặng đến mức những chiếc lá hay viên sỏi của cảm xúc, suy
tư cũng đủ dợn lên từng vòng sóng nhỏ. Đó là lúc người ta thấy
rằng: hóa ra bao ầm ĩ tháng ngày cuộc sống cũng chỉ lăn tăn còn mất
như gợn sóng kia nếu ta biết mình vốn bất động bình yên như cả thân
nước nằm điềm tĩnh tràn đầy giữa bốn bề cỏ non xanh. Và ta thấy
đúng thật mình “chỉ nợ nhân gian một chén trà”…
Thật biết ơn bạn Trà biết chừng nào!
Trả lờiXóa