Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015

Chỉ Nợ Nhân Gian Một Chén Trà




Tiêu đề bài viết ở trên là câu thơ tôi viết lên bìa cuốn Trà Thư (The Book of Tea) của Okakura Kakuzo khi cầm trên tay sau một thời gian lùng sục tìm mua. Từ đó đến nay cũng đã năm năm có dư. So với tuổi hai tám thì năm năm là một khoảng thời gian khá dài, mà thời gian càng dài thì cái món nợ của mình với trà càng lớn. Mãi đến hôm nay, âu cũng là nhân duyên cho một dịp, mới viết một bài để nói lên lời thâm cảm với chén trà nhân gian.

Còn nhớ chừng năm sáu năm trước, khi một người bạn hỏi: “Mỗi khi mình buồn, mình tìm ai đó tâm sự. Vậy mỗi khi H buồn, H làm gì?” Tôi trả lời: “Đi pha một bình trà, và ngồi nghe mình buồn”. Vậy đó, trà hiện hữu giữa cuộc sống của tôi cứ như một người bạn thân quen mà lặng lẽ: không gần đến mức ngày nào cũng gặp, nhưng gần đủ để muốn gặp thì người bạn đó đã ngồi chờ mình sẵn rồi.

Trà là một người bạn điềm đạm và dạy bạn điềm đạm. Bạn không thể vội vàng với trà được. Nếu bạn vội, nước nấu sẽ không đủ sôi. Nếu vội, bạn sẽ làm rơi trà ra khi bỏ vào miệng chiếc ấm đất nho nhỏ. Nếu vội, bạn sẽ chế nước tràn ra ngoài. Nếu vội, bạn sẽ thấy trà sao mà lâu ra thế. Ngay cả khi trà đã ra, đã được rót vào từng chén nhỏ, nếu vội, bạn cũng có thể bị phỏng khi hấp tấp cầm chén trà lên và uống ực. Nếu bạn vẫn vội, muốn uống ngay nên thổi cho mau nguội, thì bạn thổi đi luôn phần tuyệt vời nhất của trà: cái hơi nóng tỏa ra từ chén trà chạm vào đôi tay và hương trà thơm lờn vờn bay lên từ chất nước màu vàng tươi nổi bật trên lớp men trắng tinh khiết.

Trà là một người bạn biết lắng nghe một cách chân tình nhưng bình thản. Bạn ngồi đó, khi thì cảm xúc buồn vui chập chờn, lúc lại ghét thương ẩn hiện, rồi những khoảnh khắc mọi thứ trở nên lặng im tĩnh tại, và dòng suy nghĩ bất tận lại tuôn chảy miên man… Trà vẫn đối diện bạn, không nói gì cả, không bình luận thêm bớt gì cả, không vui theo khi lòng bạn hớn hở, không buồn cùng nếu tâm bạn sầu đau. Trà để bạn riêng tư với nỗi lòng của mình. Trà trả bạn về cho chính bạn, để bạn được quyền là bạn. Nếu có nói gì thì trà chỉ nói: “Uống trà đi!”. Đơn giản vậy thôi: uống thì cứ uống thôi, có gì đâu để nói, để bàn, để nghĩ. Đơn giản vậy thôi: buồn thì cứ buồn, có gì đâu để nói, để bàn, để nghĩ; vui cứ vui, có gì đâu để nói, để bàn, để nghĩ. Hãy để mọi thứ như nó là, vậy thôi.

Bằng cách đó, trà nâng đỡ tôi dọc quãng đường mười năm từ lần đầu gặp mặt cho đến ngày hôm nay. Chúng tôi cùng nhau đi qua thăng trầm, được mất, khôn dại, buồn vui, tỉnh điên, thật giả, nước mắt nụ cười, đứng lên ngã xuống,…

Trà dạy tôi biết rằng khi lòng tôi yên thì cuộc đời cũng lặng. Giây phút tôi ngồi một mình lắng nghe tiếng nước sôi reo lên từ từ, cảm thấy toàn thân mình tĩnh tọa vững vàng trên mặt đất, mắt khép hờ nhìn chiếc bình và chung trà độc ẩm cũng đang điềm nhiên có mặt trong hiện tại, thoảng nghe mùi hương trầm đến đi lẩn khuất, giây phút đó, dù bên ngoài có là trời mây u ám, hay bên trong biển động triều dâng thì vẫn hiện diện một niềm bình an không lời. 


Trà dạy tôi biết rằng mọi cái đều có thời điểm của nó, chẳng thể cưỡng cầu theo ý riêng mình được. Mọi sự cưỡng cầu chỉ làm hỏng đi nét đẹp hoàn hảo vốn có. Trà Bắc Thái uống được hai ba lần là hết vị. Trà Oolong uống được năm sáu lần là hết vị. Đừng vì thấy ngon, thấy thèm mà cố gắng châm thêm một hai nước nữa. Cái nhạt nhạt, ngai ngái của bình trà quá nước sẽ làm hỏng hết cả hương vị ngon lành mà mình vừa thưởng thức trước đó. Thay vì cố gắng tìm kiếm thêm chén trà mới, hãy ngồi im để thấy dư vị ngọt êm nhẹ đến từ vị chát của chén trà vừa uống vậy.

Lúc đầu tôi có nói “nhân duyên cho một dịp” để viết bài này vì dẫu rằng tôi có ý định viết một bài về trà từ lâu nhưng chưa biết là bao giờ, bỗng nhiên hôm nay một vị thầy nhờ tôi bài giới thiệu về trà Oolong chùa thầy mới làm ra. Đó quả là điều thú vị: trà do chùa làm.

Ta biết rằng nói đến trà đạo Nhật Bản hay thiền trà Trung Hoa thì không thể không nhắc đến những ngôi chùa và các vị sư, nói như Cao Huy Thuần “như một chân lý bất diệt, ở đâu có sư thì ở đấy có trà”. Còn ở Việt Nam, rõ ràng trà và sư cũng là một đôi tri kỷ. Do vậy, khi một chén trà được làm nên từ một vị sư, tôi nghĩ cái chất thiền, chất đạo ít nhiều cũng quyện trong làn hương của nó rồi. Tôi là kẻ mù mờ về chuyện làm trà, nhưng qua những gì thầy nói và qua những gì tôi biết về thầy, cộng thêm hương trời khí đất của vùng Bảo Lộc nổi tiếng về trà Oolong, tôi tin đó là một chén trà đáng uống. Với tôi, để biết chất lượng một sản phẩm? Rất đơn giản: nhìn vào người làm ra nó hoặc sử dụng nó.

Tôi thích cái tên trà: Tịnh Tâm. Nó gợi tôi nhớ về một kỷ niệm với một người bạn trẻ Hàn Quốc. Cậu đến thiền viện tu thiền khóa 26 ngày. Trong thời gian đó, chúng tôi trò chuyện cũng nhiều, rồi cùng uống trà đón bình minh buổi sáng, ngắm mây hồng buổi chiều và trăng sao buổi tối. Cậu kể tôi nghe về tuổi thơ không hạnh phúc bên người cha rượu chè, hai chị thì đau khổ và tính khí bốc đồng, mẹ thì từ nhỏ đến giờ cũng chưa thấy mặt, dù là qua ảnh, vì ảnh của mẹ, chị hai đã gom đem đốt hết. Có nhiều lúc nghe cậu nói về nỗi đau của mình mà tôi chỉ muốn ôm chầm lấy an ủi như một đứa em. Khóa thiền kết thúc. Buổi sáng cậu rời đi, tôi mời cậu lên phòng uống trà lần cuối. Tính anh chàng cũng còn ngây ngô. Cậu tặng tôi tấm hình 3×4 có ghi tên bằng tiếng Hàn, thêm cái viên gì tròn tròn giống hột nút, nói tôi có thể xỏ dây đeo ở cổ! Tôi tặng cậu cuốn sách thiền, thêm một ít trà Oolong Việt Nam. Chúng tôi nói chuyện về chuyến đi sắp tới qua Nepal để leo Himalaya của cậu, rồi hẹn mai mốt về Việt Nam đi dọc đất nước…

Chung trà cuối, cả hai im lặng. Thiền viện buổi sáng cũng im lặng. Nắng gió im lặng. Vách tường xi măng và cánh cửa gỗ bạc màu cũng im lặng. Chỉ hương trà Oolong thoảng nhẹ, chất đắng dịu trên môi, và vị ngọt hậu âm thầm chạm lưỡi. Bất chợt, cậu khóc. Nước mắt cứ chảy dài trên đôi má chàng trai trẻ. Tôi không nói gì, ngồi mỉm cười nhìn cậu. Rồi tôi hỏi: “Sao cậu khóc?” Cậu trả lời, nước mắt vẫn chảy: “Tôi cũng không biết nữa…” Ngừng một lát, cậu nói: “Liệu tôi có trở thành một người tốt được không?”

Mãi đến khi cậu đã đi rồi, ngồi một mình hồi lâu tôi mới hiểu hết được nỗi lòng nặng trĩu trong câu hỏi đó. Mấy ngày trước cậu hỏi tôi: “Trong thiền viện mọi thứ đều hoàn hảo quá. Nhưng tôi biết làm sao khi trở lại cuộc sống bên ngoài? Tôi thấy mình còn nhiều dục vọng quá. Tôi phải làm sao với nó?” Phải chăng trong giây phút mọi thứ im lặng một cách trong veo bên chén trà thơm ấm, chàng trai trẻ bỗng chạm phải cái tinh khiết trong tâm hồn mình, để rồi cảm nhận trọn vẹn quãng quá khứ nhuộm gam màu tối, mơ hồ thấy đường tương lai vương bụi trần gian, và nước mắt tuôn ra như muốn gột rửa lòng mình? Tôi hạnh phúc khi thấy cậu khóc như vậy. Một giọt nước mắt khóc cho điều cao đẹp có thể làm tịnh tâm hồn người ta nhiều lắm.

Có lẽ qua tuổi đời mấy ngàn năm của mình, chén trà đã chứng kiến nhiều lắm những phút giây mà cõi lòng loài người trở nên một mặt hồ phẳng lặng đến mức những chiếc lá hay viên sỏi của cảm xúc, suy tư cũng đủ dợn lên từng vòng sóng nhỏ. Đó là lúc người ta thấy rằng: hóa ra bao ầm ĩ tháng ngày cuộc sống cũng chỉ lăn tăn còn mất như gợn sóng kia nếu ta biết mình vốn bất động bình yên như cả thân nước nằm điềm tĩnh tràn đầy giữa bốn bề cỏ non xanh. Và ta thấy đúng thật mình “chỉ nợ nhân gian một chén trà”…







1 nhận xét: