một buổi chiều nhà sư quét lá con đường mở ra |
Có lẽ từ rất lâu xưa rồi,
cây chổi, sân chùa lá vàng và chú tiểu là bộ ba khó thể tách rời, cũng như quét
sân là bài học vỡ lòng cho những cậu bé để cánh cổng tam quan dẫn lối cuộc đời.
Tôi cũng không ngoại lệ.
Có nghĩa từ buổi sáng đầu tiên rời nhà vào chùa ở là đã cầm cây chổi ra vườn
quét lá. Rồi lớn lên một chút, đọc “Thiên
thần quét lá” của Vĩnh Hảo, tiếng chổi vọng xa thêm một chút vào tâm hồn. Rồi
lại lớn thêm chút nữa, đọc “Thiên long
bát bộ”, tiếng chổi xào xạc của vị Vô Danh Tăng võ công cao tuyệt hàng ngày
phất phơ đưa giữa Tàng Kinh Các Thiếu Lâm Tự lẫy lừng thiên hạ đã bay mênh mông
trên khung trời hoài mộng tuổi hoa niên.
Thật lòng mà nói, những
dòng đẹp đẽ vừa viết ở trên chỉ đẹp trong tâm tưởng (tâm hay tưởng tưởng) thôi,
còn thực thế thì có hơi khác!
Tôi còn nhớ thuở làm điệu
ở chùa, quét sân là một công việc rất đáng chán. Gần như làm vì bổn phận bắt buộc
mà lại phải thi hành vào lúc năm giờ sáng, thời điểm chỉ muốn ngủ chớp nhoáng
thêm một miếng sau buổi kinh khuya gật gù nên thỉnh thoảng lại có vài chú
(trong đó có người viết) “trốn nghĩa vụ”
bị bắt quỳ nhang.
Một chuyện mắc cười nữa
là tình trạng mất chổi. Thông thường mỗi chú sẽ được phát một cây chổi, xem như
phương tiện lao động riêng và có trách nhiệm giữ gìn cho đến đợt phát tiếp
theo. Vậy là hồn ai nấy giữ. Chú thì lấy sơn đánh dấu để nhớ mặt nhau, chú lại
viết tên mình để xác định chủ quyền. Sau đó mỗi người tìm chỗ riêng mà cất: nào
là dưới gầm đơn (giường nhỏ trong chùa), nào là góc khuất bí hiểm nào đó, có
chú còn đem cất đâu đâu trong mấy lùm cây! Ăn chắc mặc bền đến thế, vậy mà được
tuần đầu an ổn, sau đó, một buổi sáng tinh mơ đẹp trời, sẽ có chú mắt nhắm mắt
mở (sau giấc ngủ năm mười phút tranh thủ) ra nơi giấu chổi để bắt đầu công việc,
rổi sực tỉnh quáng quàng vì phát hiện phương tiện lao động của mình không cánh
mà bay. Vậy là chú ta sẽ chạy quanh chùa để tìm cho ra tài sản. Hết đến người
này đòi xem dấu tích lại qua người kia muốn kiểm tra tên họ. Nếu may mắn thì
phát hiện ra chổi mình đang được ai đó “mượn”
dùng đỡ, còn không sẽ phải chờ người khác xong rồi mượn quét. Có những khi
không kịp, đến giờ ăn cơm, quý thầy đi kiểm tra, thấy phần sân ai chưa quét thế
nào cũng bị quỳ nhang. Rồi đâm ra kiện cáo, phân bua, xét xử…! Tôi để ý thấy một
điều rất ngộ: thường những chú mất chổi nhiều nhất là những chú cất kỹ nhất.
Một thời gian sau, tôi rời
chùa đi học xa, nhớ lại, tự nhủ nếu làm quản chúng (vị thầy coi sóc việc sinh
hoạt, học hành, tu tập của mấy chú) mình sẽ không theo cách đó nữa. Tại sao
mình không làm một cái nhà kho rồi mua nhiều chổi để đó. Ai cần thì lấy dùng,
sau khi xong đem để lại. Rất chi là đơn giản!
Học xong, tôi về chùa
làm quản chúng thật. Thế là bắt tay thực hiện lý tưởng “một ngôi chùa nói ‘không’ với
mất chổi”! Tôi mua nhiều chổi, để một góc, nói mấy chú lấy dùng tự nhiên,
xong để lại chỗ cũ. Tưởng vậy coi như xong xuôi. Khổ nỗi chùa rộng quá sức, người
lại ít, mấy chú còn nhỏ, dặn trước quên sau, để đâu quên đó nên rốt cuộc chổi
mua đều đều mà vẫn cứ thiếu, nhưng chịu khó đi một vòng thế nào cũng thấy đây một
cây, đó một cây lăn lóc!
Tôi rời Việt Nam, qua
Thái Lan học, trong lòng còn ấm ức vì “lý
tưởng” chưa thực hiện được. Tuy nhiên, chính nơi mới đến này tôi lại bắt đầu
lại bài học vỡ lòng ngày trước còn dang dở. Chùa tôi ở có nhiều cây cối, mỗi
sáng chiều lá rụng đầy sân. Do đó quanh chùa luôn có những chiếc chổi tre cán
dài để sẵn cho những ai muốn làm công quả hoặc muốn vận động tay chân sau buổi
hành thiền. Có lần một thiền sinh người Việt nói ở chùa này lá rụng rất nhiều
màu đẹp, đẹp đến mức nếu hốt đem đổ đi thì phí quá! Lần khác xem ảnh một thiền
sinh phương Tây chụp cảnh thiền viện, tôi thú vị khi thấy có tấm hình đám lá
vàng vừa mới được gom lại trên sân. Từ từ tôi cũng đâm ra thích quét chùa.
Những buổi sáng rảnh rỗi,
đôi chân trần nhột nhạt dẫm lên sân chùa rộng rãi còn mát sương đêm, toàn thân ấm
áp trong ánh nắng ngày mới vàng tươi nhẹ nhàng hòa tan nền trời xanh thanh khiết.
Chiếc chổi vui vẻ xua đám lá vàng tung tăng chạy về một hướng, đôi tay đưa đều
như thảo nét bút lông . Tôi nhớ lại hồi làm quản chúng, cũng có dậy sớm đi quét
lá nhưng sao cảm giác khác hẳn bây giờ. Khi đó tôi quét cũng vì trách nhiệm, muốn
làm gương cho mấy chú, nên nó đáng chán không khác gì thuở đầu còn để chỏm.
Có một điều thú vị nho
nhỏ là thỉnh thoảng khi đang quét, tôi bất chợt nhận được một lời “lành thay” từ mấy vị Phật tử ở chùa làm
công quả. Mấy vị đó rất siêng. Họ cần mẫn làm việc chùa cả ngày. Tôi đọc đâu đó
nói ở Thái Lan, số tiền người dân dùng để làm phước chiếm một phần cố định
trong khoản chi tiêu của họ. Điều đó xác thực tới mức nào không rõ nhưng quả thật
như những gì thấy biết, người Thái rất thích cúng dường. Đó là một phần sinh hoạt
không thể thiếu đầu ngày mới. Sau khi cúng dường chư Tăng đi khất thực, họ hoan
hỷ với lời kinh chúc phúc và cảm thấy một khởi đầu may mắn. Những vị làm công
quả ở chùa kia đang làm phước theo cách của mình. Tôi cũng muốn nói “lành thay”. Chỉ có điều tôi hơi thắc mắc
là không biết họ có vui với công việc của mình hay chăng. Nếu không, đó quả là
một điều đáng tiếc vì công việc họ đang làm cũng không khác gì những ai cúng dường
chư Tăng mỗi sáng, người cúng dường tài vật, người cúng dường công sức nhưng một
bên hoan hỷ vì mình vừa làm phước xong, một bên lại có suy nghĩ mình đang cố gắng
làm phước và chưa cảm thấy hoan hỷ. Đó chẳng phải là một điều không công bằng
sao?
Nói điều này không biết
chính xác không, nhưng tôi thấy chữ “phước”
ngoài những khía cạnh khác nhau, có một khía quan trọng mà chúng ta gán cho nó
là “điều kiện vật chất tốt”. Khi nói
một người có phước ta sẽ nghĩ ngay người đó có điều kiện vật chất tốt. Theo
tôi, người có phước là người trên môi luôn sẵn một nụ cười hồn nhiên thích thú
như trẻ thơ trước cuộc sống hay một nụ cười bình yên giản dị giữa dòng đời; và
người làm phước là người vui vẻ với công việc mình làm cũng như thấy ý nghĩa của
nó. Nên khi một người đến chùa làm công quả với hy vọng có phước cho tương lai,
điều đó dĩ nhiên chính đáng, nhưng nếu họ biết hạnh phúc, an hòa trong công việc
của mình thì không cần phải kiếp sau mới hưởng được phước mà ngay chính lúc ấy
họ đã có phước rồi.
Không biết “ngày xưa” như thế nào vì tuổi mình còn
vừa mới, nhưng nhìn ra cuộc sống ngày nay, cuộc sống xung quanh, tôi thấy người
ta đang rất khó khăn để “có phước” với
cuộc đời của mình. Nói cách khác, hạnh phúc chỉ có ở tương lai, còn hiện tại
luôn là bước chuẩn bị; cũng như miền đất hứa thuộc về nơi khác, nơi này chỉ ốc
đảo tạm dung thân. Đã vậy, thêm một sự ngặt nghèo nữa là hạnh phúc thì số lượng
có hạn, đất hứa cũng diện tích nhất định nên con người ta phải rất nhanh chân,
rất tranh thủ, rất cố gắng trong cuộc đua này. Chẳng lẽ cuộc sống này không đủ
hạnh phúc hoặc quá đau khổ đến mức người ta phải cố thoát ra? Nhưng đi đâu?
Khoa học đang phóng những
con tàu vũ trụ để ráo riết tìm kiếm hành tinh có sự sống cho con người tương
lai, phòng khi một thảm họa thiên nhiên, phòng khi dân số quá đông hay phòng
khi con người đã hủy hoại xong trái đất này?
Năm ngoái có câu chuyện
như vầy ở thiền viện: Một thiền sinh phương Tây thấy con mèo đi cắn nhau đâu đó
về, chân bị thương tích, thấy người trong chùa không ai băng bó cho nó nên anh tự
làm. Đến giờ trình pháp anh hỏi thiền sư: con mèo bị thương mà không ai giúp đỡ
nó, vậy chứ tu thiền để làm gì?
Tôi muốn mượn câu hỏi của
anh: “vậy chứ tu để làm gì?”. Tôi
nghĩ rằng bất cứ pháp môn Thiền Tịnh Mật nào đi nữa, mục đích ý nghĩa nhất là
đưa cái con người lang thang của ta về lại với ta, về lại thế giới này, thực tại
này để mà sống một cuộc đời có ý nghĩa, hài hòa với chính mình, hài hòa với mọi
người, hài hòa với tất cả. Còn nếu một pháp môn nào đó hứa hẹn kết quả là Niết-bàn,
là Cực Lạc, là các tầng thiền, các phép thần thông để rồi người tu lãng quên cuộc
sống thì đó không khác gì cuộc rong ruổi đến miền đất hứa, không khác gì những
con tàu vũ trụ đang rời trái đất để kiếm tìm một hành tinh xa xăm chưa biết đến.
Vì quá lo cho công cuộc tu hành của mình, biết đâu ta đã vô tâm đi qua một con
mèo bị thương hoặc bỏ lỡ những đám lá vàng nhiều màu thật đẹp trên nền chùa?
Nếu hành trình đến Cực
Lạc, Niết-bàn được quan niệm như hành trình đến một nơi an ổn thuộc tương lai
không có những vấn đề của thế giới này thì hệ quả tất yếu là người ta nuôi lớn
dần trong mình tâm lý cầu an, sợ khổ, lánh đời. Có lần tôi nói với mấy cô cậu
Phật tử trẻ: “Không khéo chùa sẽ thành một
chốn cho những người sợ hãi cuộc sống co cụm với nhau để tìm sự an toàn, an
nhàn”. Hình như đang có nhầm lẫn trong cách hiểu giữa an lạc và an nhàn, giữa
giải thoát và trốn tránh.
Khi đọc một bài báo dự
đoán về tương lai sáng lạn khoa học sẽ mang đến cho con người trong 50 năm tới,
họ nói máy móc sẽ hoàn toàn thay thế những công việc tay chân nặng nhọc của con
người, giúp con người tự do và rảnh rổi trong việc sáng tạo, tôi đã bật cười.
Giúp con người tự do và rảnh rỗi? Tự do khỏi công việc nhưng lại nô lệ vào máy
móc và rảnh rổi việc tay chân để bận bịu việc đầu óc, không phải đó là điều rất
buồn cười sao? Người ta cứ nói về công việc tay chân nặng nhọc cần đến máy móc.
Quét nhà, quét sân, giặt đồ, rửa chén… là nặng nhọc? Đến mức độ đó thì quả thật
con người tương lai sẽ đúng y như hình ảnh bộ phim hoạt hình “Wall-e” miêu tả: mập núc ních, sống
trên những chiếc ghế bay và giao tiếp với một thế giới tưởng tưởng qua chiếc
màn hình luôn ở trước mắt. Chưa hết, hình ảnh tương lai của con người không chỉ
dừng lại ở đó. Theo những gì khoa học đang cố gắng “trang bị” cho chúng ta, thì vài chục năm tới, khi đứng nói chuyện
với một người ta khó lòng biết mình có đang nói chuyện với con người thật của họ
hay không, khi mà máy móc được cấy ghép từ mắt đến tai, từ ngoài vào trong[ii].
Tôi không giỏi, không rành khoa học kỹ thuật, nhưng cũng có thể thấy những gì
nó mang lại cho loài người. Tôi không giỏi, không rành khoa học kỹ thuật, nhưng
cũng đủ để thấy những gì nó đã và đang lấy đi của loài người.
Hiện nay, có những
trung tâm ở các vùng thôn quê núi đồi mà người ta đến sống để được làm việc tay
chân; có những ngôi trường trong đó học sinh được dạy trồng rau, trồng lúa, làm
nhà,…; và cũng nhiều người vui vẻ với cuộc sống tự tay xây nhà, tự trồng lương
thực. Điều đó có ý nghĩa gì? Phải chăng trải qua một thời gian dài sống trong đầu
của chính mình, giờ con người thèm được đạp chân lên mặt đất, được nhúng tay vô
bùn lầy, được vác trên vai những cột kèo, được tắm mình trong mưa nắng thiên
nhiên? Phải chăng vì nghiệm ra câu nói của Tagore: “Con người làm nên thần thánh nhưng khi thần thánh lên ngôi thì con người
thất bại” mà nhân loại bắt đầu hạ bệ những thần thánh kim loại và đòi lại
quyền làm chủ bản thân mình, quyền sống như một con người lành lặn có cả thân
thể, tứ chi chứ không chỉ cái đầu? Phải chăng chuyến tàu siêu tốc đuổi bắt viễn
ảnh tương lai của tâm trí đã vắt kiệt sức lực và thay vì đưa hành khách đến
thiên đường hứa hẹn thì lại chỉ hiện ra một hành tinh khô cằn sỏi đá nên người
ta bắt đầu biết sống vui với những gì sẵn có ở nơi đây?
Biết vậy để thấy rằng
cái bài học rửa chén, quét sân, lau chùa, tưới cây, trồng rau… của chốn thiền môn từ bao đời nay không chỉ là
bài học dành cho chú tiểu, cũng không phải chỉ công việc cho những người làm
công quả mà chính là một nếp sống đẹp Phật giáo gìn giữ và dâng tặng cuộc đời.
Nếp sống đó cho người ta được sống với chính mình, dạy người ta biết làm thầy,
làm học trò, làm bạn của mình nhưng đồng thời nếp sống đó cũng đưa người ta hòa
vào cuộc đời, hòa vào trời đất trong hình hài nguyên vẹn tinh khôi. Đừng giảng
giải những câu chuyện thiền như “Ông ăn
cơm chưa? Dạ rồi. Vậy rửa chén đi”[iii]
thành một triết lý bí hiểm mà người nghe có cảm tưởng “không biết bao giờ mình mới ‘đạt’ tới đó”. Chổi sẵn đây. Sân chùa còn lá. Nền nhà còn bụi. Ngoài đường
còn rác. Và có một hạnh phúc giản dị là đứng nhìn mảnh vườn tinh tươm mới quét
trong ánh nắng vừa lên…
Cần tảo già lam địa
Thời thời phước huệ sanh
Tuy vô tân khách chí
Diệc hữu thánh nhân hành
Dịch thơ:
Siêng năng quét dọn vườn chùa
Phước đức trí tuệ mùa mùa nở hoa
Dù không thấy bóng khách qua
Dấu hài bậc thánh cũng là quanh đây
[ii] Trong
bài nói chuyện ở hội nghị TED, nhà khoa học Ray Kurzweil đưa ra viễn ảnh tăng
khả năng tư duy của con người trong 20 năm tới bằng cách đưa những nanobot (thiết
bị điện tử cực kỳ nhỏ, 1 phần tỷ mét) vào não. Nếu muốn tìm hiểu thêm xin vào
đường link này: https://www.youtube.com/watch?v=uiV8V-56Lsw
Không biết sự thông minh về tri thức nó giá trị tới mức
nào và người ta muốn chừng nào mới thấy đủ, nhưng cứ tưởng tưởng ra một con người
như vậy, tự nhiên thấy lạnh người!
[iii] Có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu : Con mới vào
thiền viện, xin thầy chỉ bày đạo lý.
Tổ Châu nói : Ông ăn cơm chưa ?
Vị tăng : Dạ, ăn rồi.
Tổ Châu nói : Thì rửa chén bát đi !
Vị tăng tỉnh ngộ.
Tổ Châu nói : Ông ăn cơm chưa ?
Vị tăng : Dạ, ăn rồi.
Tổ Châu nói : Thì rửa chén bát đi !
Vị tăng tỉnh ngộ.
Tôi hiểu câu chuyện này như vầy: Đạo chính là cuộc sống
(ăn cơm, rửa chén), và sống theo Đạo là sống với lẽ thường của cuộc sống (ăn
cơm xong thì rửa chén).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét